Trong thời gian qua, Việt Nam chủ yếu thực hiện xuất khẩu các nhóm sản phẩm nhựa như: tấm nhựa, hạt nhựa; đồ nhựa gia dụng; ống nhựa và phụ kiện; thiết bị vệ sinh bằng nhựa; sản phẩm nhựa dùng trong xây dựng; bao bì đóng gói các loại; sản phẩm nhựa tiêu dùng: văn phòng phẩm, nhựa mỹ nghệ - mỹ phẩm, đồ chơi v.v.
IV – CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH TRONG HIỆN TẠI VÀ TƯƠNG LAI:
Yếu tố kinh tế:
Đặc thu nổi bật của ngành Nhựa Việt Nam là phải nhập khẩu đến 85 – 90% nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Trong khi đó, giá nhập khẩu các chủng loại nguyên liệu Nhựa luôn có sự biến động theo sự biến động của giá dầu trên thế giới, tạo sức ép lớn đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam, làm giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm Nhựa Việt Nam trên thị trường nội địa cũng như trên thị trường xuất khẩu, do giá nguyên liệu thường chiếm 75 – 80% giá thành của sản phẩm. Không chủ động được nguyên liệu đầu vào là một hạn chế lớn đối với ngành Nhựa Việt Nam. Do đó, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu tỷ giá tăng lên thì chi phí đầu vào của doanh nghiệp cũng sẽ tăng theo, trong khi giá bán sản phẩm lại không thể điều chỉnh tăng tương ứng. Các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể xoay xở kịp với sự tăng giảm thất thường của giá đầu vào, đồng thời cũng không thể điều chỉnh ngay lập tức giá bán sản phẩm khi chi phí đầu vào tăng lên vì mục tiêu duy trì chữ tín với khách hàng. Đây là một nhiệm vụ rất lớn mà Việt Nam cần phải giải quyết trong thời gian tới để có thể hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nhựa xuất khẩu. Quá trình này kéo dài lâu và doanh nghiệp không có các biện pháp khắc phục như dự trữ trước nguyên liệu, sử dụng các nghiệp vụ quyền chọn của ngân hàng thì sẽ phải chịu những ảnh hưởng lớn đến giá thành sản xuất cũng như lợi nhuận, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Một nhân tố kinh tế nữa cũng có ảnh hưởng đến ngành nhựa là lãi suất. Để thực hiện sản xuất, ngoài vốn tự có và vốn huy động qua các hình thức phát hành chứng khoán, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhựa nói riêng đều phải sử dụng đến nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên việc vay vốn của ngân hàng không hoàn toàn dễ dàng cho các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp nhỏ. Trong khi đó, đến 95% doanh nghiệp nhựa Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, việc huy động vốn để mở rộng sản xuất hoặc nhập khẩu nguyên liệu để thực hiện các đơn hàng với những doanh nghiệp này không hề đơn giản. Mặt khác, khi nền kinh tế xảy ra lạm phát cao, Nhà nước buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng cách tăng lãi suất cho vay thì các doanh nghiệp lại càng khó khăn hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Do đó, nhân tố lãi suất cũng có tác động không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngành Nhựa nói riêng.
Yếu tố xã hội:
Nhựa ngày càng chứng tỏ được vai trò to lớn trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong các ngành kinh tế. Các sản phẩm làm bằng nhựa ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong tiêu dùng hàng ngày cũng như làm nguyên liệu cho các ngành khác. Cuộc sống càng phát triển, thu nhập càng cao thì yêu cầu của người tiêu dùng đối với chất lượng, mẫu mã của sản phẩm nhựa cũng tăng lên, kể cả các sản phẩm cao cấp. Không giống như mặt hàng dệt may, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam lại thích thị trường nội địa hơn thị trường xuất khẩu. Nguyên nhân là do giá bán sản phẩm nhựa trong nước thường cao, do đó bán sản phẩm trong nước có thể thu được lợi nhuận cao hơn xuất khẩu. Vì vậy, sản phẩm nhựa Việt Nam đã quen thuộc và được người dân cũng như các doanh nghiệp Việt Nam tin dùng, như sản phẩm nhựa của công ty Nhựa Thiếu niên Tiền Phong, Nhựa Bình Minh, bao bì Nhựa Tân Tiến v.v. Đây là một thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc chiếm lĩnh và mở rộng thị phần tại thị trường nội địa.
Xu hướng của thế giới là sử dụng những sản phẩm nhựa thân thiện với môi trường, trong khi các sản phẩm nhựa xuất khẩu của Việt Nam hiện nay như túi xốp đựng hàng siêu thị, túi đựng rác đã và đang đáp ứng được yêu cầu này … Mặt khác, sản phẩm Nhựa của Việt Nam cũng được các nước nhập khẩu đánh giá cao về chất lượng cũng như lợi ích vê thuế quan khi Việt Nam đã và đang gia nhập hầu hết các FTA có quy mô thị trường lớn trên thế giới. Do đó tiềm năng xuất khẩu của ngành Nhựa Việt Nam cũng rất thuận lợi, tăng khả năng mở rộng thị trường trên thế giới.
Yếu tố công nghệ:
Nhân tố công nghệ có một tác động to lớn đến sự phát triển của ngành nhựa. Khoa học công nghệ phát triển đã giúp cho nhựa trở thành nguyên liệu thay thế cho các sản phẩm truyền thống như gỗ, kim loại v.v. Bên cạnh đó, công nghệ hiện đại đang góp phần tạo ra những sản phẩm nhựa có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu thẩm mỹ cũng như sự an toàn trong sử dụng cho người tiêu dùng. Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam trong những năm qua đã chú ý đến việc đầu tư đổi mới công nghệ. Vì thế các sản phẩm nhựa Việt Nam được đánh giá là có khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu do công nghệ đã đáp ứng được yêu cầu của thế giới.
Tuy nhiên, việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị đối với ngành Nhựa hiện nay vẫn đang là một trở ngại lớn do hầu hết các thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất của ngành, như máy in, máy ghép, máy thổi v.v. đều phải nhập khẩu. Nếu ngành cơ khí của Việt Nam có thể phát huy tốt vai trò hỗ trợ thì ngành Nhựa sẽ có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại với chi phí hợp lý, qua đó tăng hiệu quả hoạt động và doanh thu của ngành.
V - ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CHÍNH SÁCH:
1.Phát triển ngành Nhựa theo hướng hiện đại, tăng cường tự động hoá, từng bước loại bỏ công nghệ, thiết bị cũ, thay thế bằng thiết bị tiên tiến, hiện đại của thế giới, sử dụng công nghệ vật liệu mới đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng, an toàn, vệ sinh, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Việt Nam và quốc tế.
Tập trung phát triển sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao với công suất lớn, có hàm lượng chất xám cao và giá trị gia tăng vượt trội như:
Đầu tư sản xuất nguyên liệu hoá chất ngành nhựa.
Bao bì cao cấp, ống nhựa chuyên dùng cỡ lớn.
Cc chi tiết, phụ tùng nhựa nội địa hoá sản phẩm ôtô, xe máy, đồ điện lạnh ...
Khẩn trương xây dựng các cơ sở sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa. Phối hợp chặt chẽ với ngành công nghiệp khai thác chế biến dầu khí, công nghiệp hoá chất ... để xây dựng các cơ sở sản xuất nguyên liệu. Giải quyết nguồn nguyên liệu có tầm quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển ngành nhựa.
2.Đầu tư phát triển ngành nhựa cần đi thẳng vào công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, bảo đảm môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống...
-
Cơ sở nguồn nguyên liệu:
-
Mục tiêu về kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành nhựa:
-
Quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu nhựa:
-
Định hướng phát triển ngành cơ khí chế tạo thiết bị và khuôn mẫu:
Mục tiêu quan trọng của ngành nhựa Việt Nam trong thời gian tới là đầu tư để cung cấp một phần nguyên liệu trong nước và cần có sự kết hợp chặt chẽ với Chiến lược phát triển hóa dầu và Chiến lược phát triển ngành hóa chất Việt Nam.
Trong tương lai khi các dự án hoá dầu của nước ta đi vào hoạt động, áp lực về nguyên liệu cho ngành nhựa sẽ được giảm bớt. Vì thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp nhựa phải đối đầu là nguồn nguyên liệu phụ thuộc rất lớn vào nhập khẩu và sự biến động về giá nguyên liệu. Hiện nay mỗi năm ngành nhựa cần trung bình từ 1,5 – 2 triệu tấn các loại nguyên liệu đầu vào như PE, PP, PS v.v. chưa kể hàng trăm loại hoá chất phụ trợ khác nhau; trong khi đó ở nội địa mới chỉ đáp ứng được khoảng 450.000 tấn nguyên liệu (trong đó PVC chiếm 300.000 tấn).
Một giải pháp khác đối với nguồn cung nguyên vật liệu là sử dụng nhựa tái chế, nhưng chưa được áp dụng rộng rãi và chỉ được hạn chế ở những mặt hàng nhất định
Giai đoạn 2016 – 2025:
-
Mở rộng tổ hợp hóa dầu phía Nam, nguyên liệu là Naphta nhập và Condensat của Việt Nam, sản phẩm là HDPE, LDPE, công suất 0,4-0,6 triệu tấn/năm. VĐT: 1,5 tỷ USD.
-
Nhà máy sản xuất Polystyren (PS) tại Dung Quất (Quảng Ngãi), nguyên liệu là Monomer nhập khẩu, công suất 60.000 tấn/năm. VĐT: 150 triệu USD.
Rút kinh nghiệm các nước có nền công nghiệp tiên tiến như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… nên cần hình thành mô hình liên kết tổ hợp sản xuất khuôn mẫu chất lượng cao, cho từng lĩnh vực công nghệ khác nhau:
-
Thiết kế chế tạo khuôn nhựa, khuôn dập nguội, khuôn dập nóng, khuôn đúc áp lực, khuôn ép chảy, khuôn dập tự động…
-
Thiết kế chế tạo các cụm chi tiết tiêu chuẩn, phục vụ chế tạo khuôn mẫu như: các bộ đế khuôn tiêu chuẩn, các khối khuôn tiêu chuẩn, trụ dẫn hướng, lò so, cao su ép nhăn, các loại cơ cấu cấp phôi tự động…
-
Thực hiện các dịch vụ nhiệt luyện cho các công ty chế tạo khuôn;
-
Cung cấp các loại dụng cụ cắt gọt để gia công khuôn mẫu;
-
Cung cấp các phần mềm chuyên dụng CAD /CAM/CIMATRON, CAE…
-
Chuyên thực hiện các dịch vụ đo lường, kiểm tra chất lượng khuôn…
(Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam)